Phần 2.3 – Bình Định, quê hương tôi hay Quy Nhơn, lần trở lại (6-10/6/2020)- Những nơi đã qua và dấu ấn ở lại


Ngày thứ 3 của cuộc hành trình, sau buổi ăn sáng ở KS Qui Nhơn, đoàn chúng tôi trực chỉ quê hương tôi Huyện Tây Sơn, cách QN khoảng 40 km, về phía Tây theo QL 19, hướng Pleiku – Kon Tum.

Trong chương trinh Tour do chúng tôi hoạch định, ở Tây Sơn chúng tôi tham quan tới 3 nơi: Đền thờ 3 vị Tây Sơn tam kiệt là chính; tiếp theo là danh thắng Hầm hô và nếu còn thì giờ thi thăm thêm các đền thờ danh tướng Bùi Thị Xuân,anh hùng liệt sĩ Mai Xuân Thưởng, đại tường Võ Văn Dũng…

 

Bảo tàng Quang Trung,

Là địa điểm chính và là nơi tham quan đầu tiên.Bảo tàng là  quần thể mà điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt cùng các danh tướng thân cận, dưới sự chung tay góp sức của đông đảo nhân dân,vào năm 1958 điện thờ chính thức được khởi công xây dựng và hoàn thành vào năm 1960 ngay trên nền nhà cũ của ba em nhà Tây Sơn, với diện tích lên tới 2.325 m2.

Bảo tàng được thiết kế với bố cục cân đối, tỏa tròn ra tứ hướng và tụm lại vào điểm chính giữa – nơi đặt tượng đài Quang Trung – Nguyễn Huệ.

Từ xa trông vào, ta thấy bao quanh bảo tàng Quang Trung Bình Định là “khí chất” cổ xưa với những lớp mái ngói đỏ gạch, cong cong chạm khắc những hình uốn lượn điêu nghệ!

Trước sân, có cổng tam quan, kế đó là nhà bia ghi công lao của vị anh hùng Quang Trung bằng chữ quốc ngữ.Chính điện được chia thành ba gian, gian giữa thờ Nguyễn Huệ, gian bên trái thờ Nguyễn Nhạc, gian còn lại thờ Nguyễn Lữ. Hai đầu hồi điện đặt ban thờ các văn thần, võ sĩ nhà Tây Sơn: Bùi Thị Xuân, Ngô Thì Nhậm, Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở, Trần Văn Kỷ, Võ Văn Dũng…

 

Cây Me, Giếng nước

Cho đến nay, trong khu vườn cũ của gia đình nhà vua Quang Trung vẫn còn lưu giữ 2 di tích cực kỳ quý giá: giếng nước xưa và cây me cổ thụ, tương truyền lại là có từ thời Hồ Phi Phúc (thân sinh của ba anh em nhà Tây Sơn).Giếng nước cổ nằm bên phải điện Tây Sơn với đường kính là 0,9m.Nguyên tác được xây bằng đá ong và không sâu như bây giờ bởi sau này dân làng mới trùng tu để làm giếng chung cho cả làng.

 

Hàm hô danh thắng,

Khu du lịch sinh thái Hầm Hô tọa lạc tại xã Tây Phú, huyện Tây Sơn, cách thành phố Qui Nhơn 50 km về phía Tây Bắc, cách Bảo Tàng Quang Trung 5 km. Là một điểm tham quan lý tưởng không thể bỏ qua của du khách khi đến với quê hương Bình Định, miền đất địa linh nhân kiệt.

Giữa ngút ngàn của rừng xanh dưới chân dãy Trường Sơn hùng vĩ.Hầm Hô một Danh Thắng thiên nhiên tuyệt mỹ, một điều kỳ diệu của tạo hóa với:  khúc sông Trời Lấp, với Hòn Chuông, Hòn Bóng, với Đá Thành, Bàn Cờ Tiên, Dấu Chân Khổng Lồ và một hệ sinh thái rừng đa dạng…Đến với Khu du lịch Hầm Hô, du khách như được trở về với thiên nhiên hùng vĩ, được đắm mình trong thế giới Bồng lai tiên cảnh và như được trút bỏ mọi lo toan của cuộc sống hiện đại.

 

Võ Tây Sơn,

Trong chương trình Tour, khi mua vé du khách được hỏi nếu muốn xem múa võ Tây Sơn, chúng ta chỉ mua 400.000đ/ 1 xuất /20 người trở lại và nếu xuât đông hơn thì giá vé mỗi ngươi là 20.000đ.

Do hạn chế về thời gian nên chúng tôi không mua tour này nhưng thiết nghĩ trước khi chia tay Tây Sơn chúng ta cũng cần tìm hiểu một chút về môn võ danh bất hư truyền này!

Ngày nay, ai có dịp về thăm xứ Nẫu đều thích thú và tò mò với câu ca:  “Ai về Bình Định mà coi/Con gái Bình Định múa roi, đi quyền”.

Luyện võ bên tháp Bánh Ít (huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định).

Ngày xưa, việc luyện võ, học võ hầu như chỉ dành cho phái mạnh, cũng như việc học hành, thi cử.Đó là do quan niệm “trọng nam khinh nữ” của thời phong kiến tồn tại lâu đời. Nhưng đặc biệt, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt đã có nhiều trường hợp ngoại lệ, giới liễu yếu đào tơ ấy đã âm thầm luyện võ, học văn để rồi khi nước nhà nguy biến đã đứng lên xưng vương, khởi nghĩa đánh đuổi quân thù xâm lược như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu.

Thời Tây Sơn, ở quê tôi, ngoài “thất hổ tướng” còn có “ngũ phụng thư”– 5 vị nữ tướng tài danh mà nổi bật là Đô đốc Bùi Thị Xuân. Vị nữ tướng này được mệnh danh là “Cân quắc anh hùng”, theo thầy luyện võ từ nhỏ bên dòng sông Côn hiền hòa nằm ở phía Đông Phú Phong (huyện Tây Sơn ngày nay).

Khi cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn nổi lên, bà đã cùng đội nữ binh về với Tây Sơn Tam kiệt và từ đó cầm quân xông pha trận mạc, trở thành một nữ tướng dũng mãnh không thua kém đức lang quân là Thái phó Trần Quang Diệu.Có lẽ câu ca trên có xuất xứ từ vùng đất võ Phú Phong xưa với phong trào luyện võ phổ biến trong giới nữ, nơi quê hương người anh hùng “áo vải cờ đào” một thời oanh liệt. 

Yếu tố căn bản nào khiến Bình Định được mệnh danh là miền đất võ? Trong hồ sơ đề nghị công nhận võ cổ truyền Bình Định là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2012, các nhà nghiên cứu đã bình luận:

 “Với bề dày lịch sử và những giá trị tinh hoa được khẳng định, gìn giữ, lưu truyền qua nhiều thế hệ, với khả năng lan tỏa rộng rãi trong đời sống quá khứ và đương đại, võ Bình Định là hiện tượng văn hóa đặc sắc của vùng đất mà nó sinh thành, góp phần làm giàu bản sắc Việt Nam” (Trần Thị Huyền Trang).

Nói đến võ Bình Định, người ta không thể không nói đến phái võ Tây Sơn lừng danh một thời.Tây Sơn là vùng đất được những cư dân Việt định cư, khai khẩn sớm nhất thuộc xứ Đàng Trong, khi chúa Nguyễn bắt đầu lập dinh trấn Quảng Nam.Những người con nước Việt “mang gươm đi mở cõi” đã mang theo bao hoài bão.Nhưng buổi đầu trong hoàn cảnh loạn lạc, chiến tranh triền miên, nơi miền đất lạ, họ phải lập thân bằng võ nghiệp; lấy sức mạnh và sự can trường để tồn tại trước thiên nhiên khắc nghiệt và dã tâm của con người thời loạn.

Theo sử sách ghi lại, lớp võ nhân đầu tiên ở vùng Tây Sơn dựng nên nghiệp võ có lẽ phải kể đến thầy Trương Văn Hiến, Ngô Mãnh… là người Đàng Ngoài, giỏi cả văn lẫn võ, có thân tộc làm quan cho chúa Nguyễn Đàng Trong nhưng vì bất mãn với triều thần mà bỏ đi tìm vùng đất mới sinh kế. Thời kỳ thịnh hành võ nghiệp ở Tây Sơn nói riêng và phủ Hoài Nhơn, phủ Quy Nhơn nói chung là thế hệ sau được đào tạo bài bản bởi những người tinh thông võ nghệ như thầy Trương Văn Hiến.Thời này nền võ đạo đã được đề cao, hình thành nên làn sóng võ hiệp “cứu khốn phò nguy” nơi miền đất sông Côn. Những lớp học trò xuất sắc như 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ; Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Tuyết… đã tạo ra một thế hệ võ nhân với tài thao lược xuất chúng. Họ không những lĩnh hội những tuyệt kỹ võ thuật của thế hệ trước mà còn sáng tạo thêm nhiều chiêu thức mới, hệ phái mới với những bí kíp độc đáo, trong số đó có nhiều tuyệt kỹ võ học đến nay đã bị thất truyền.

Trong cuốn “Tây Sơn danh tướng bí kíp mộ hồn thao” của Nguyễn Trung Như được lưu trữ ở chùa Long Phước (Tuy Phước-Bình Định ngày nay) đã đề cập đến những bí kíp võ công của 20 danh tướng thời Tây Sơn.Trong đó có những tuyệt kỹ mà ít người có thể luyện tập thành công như:  “Độc thần kiếm” của Nguyễn Nhạc, “Ô long đao” của Nguyễn Huệ, “Lôi long đao” của Võ Văn Dũng, “Lôi phong tùy hình kiếm” của Trần Quang Diệu, “Phong vân kiếm” của Bùi Thị Xuân, “Miên quyền” của Nguyễn Lữ… Bên cạnh đó, thời kỳ thịnh võ ở đất Tây Sơn, thế hệ võ nhân với võ công thượng thừa này đã sáng tạo nhiều chiêu thức mới độc đáo như “Hùng kê quyền” của Nguyễn Lữ (quan sát từ các thế đá gà); “Phi yến thảo pháp” của Nguyễn Huệ (quan sát từ đàn én lượn bay); “Song phượng kiếm” của Bùi Thị Xuân (lấy cảm hứng từ đôi chim đùa nhau)

Từ thời nhà Tây Sơn trở đi, nơi vùng đất bên sông Côn đã hình thành những dòng võ nổi danh như:

  • Dòng võ họ Trương ở An Thái, mà Tổ sư là Trương Văn Hiến, người có công đào tạo Tây Sơn Tam kiệt và nhiều danh tướng Tây Sơn khác;
  • Dòng võ họ Nguyễn ở An Vinh, nổi tiếng không kém mà người có công gầy dựng sau này là võ sư Nguyễn Ngạc (Hương mục Ngạc). Dòng võ này có liên quan đến một nữ võ nhân là Nguyễn Thị Vũ, bà Tổ cô của Hương mục Ngạc, người truyền thụ quyền cước cho nữ tướng Bùi Thị Xuân trước đây;
  • Dòng võ họ Hồ ở Thuận Truyền, với sự nổi danh về đường roi của Hồ Ngạnh (Hồ Nhu). Dòng võ này cũng có gốc từ thời Tây Sơn nhưng đến đời Hồ Ngạnh mới nổi tiếng với nhiều môn sinh theo thụ giáo. Ngày nay người ta còn nhắc đến câu: “Roi Thuận Truyền, quyền An Thái” là vậy.
  • Dòng võ họ Diệp gắn với tên tuổi võ sư Diệp Trường Phát, người sáng lập võ phái Tây Sơn – An Thái;
  • Dòng võ họ Lâm, hình thành từ cuối thế kỷ XVIII gắn với tên tuổi võ sư Lâm Hữu Phong và võ phái Bình Sơn…

Được xây dựng trên nền tảng võ học uyên thâm, từ xưa hệ phái võ Tây Sơn đã hình thành nên tinh thần thượng võ trong lớp môn sinh để từ đó biết yêu chuộng lẽ phải, ghét cường quyền, chống áp bức, bất công… Với tinh thần ấy,ngay từ đầu cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, họ đã thu hút các bậc danh sĩ,võ tướng theo về đầu quân, được đông đảo nhân dân ủng hộ.

Ngày nay, về Tây Sơn, vùng đất hiền hòa bên dòng sông Côn thơ mộng, ngoài những di tích lịch sử của nhà Tây Sơn, chúng ta có thể đến thực địa các làng võ nổi tiếng vùng An Thái, An Vinh, Thuận Truyền, thăm võ đường của các bậc võ nhân nổi tiếng một thời để chiêm ngưỡng những thế võ cổ truyền Tây Sơn hiện vẫn còn được lưu truyền cho thế hệ môn sinh ngày nay, mà ngay ở xã Bình Nghi quê tôi, cũng có những danh sư như: Phan Thọ, Đỗ Hược, Tám Hoàng… còn cha tôi, thì gốc An Vinh nên cũng có chút chút, vừa đủ để bảo vệ mình và gia đình!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *